Chu trình Ni-tơ (Nitrogen) – Phần 1
Khái niệm “Chu trình Ni-tơ (Nitrogen)” cho người bắt đầu chơi cá cảnh biển
Vòng tuần hoàn nitrogen hay gọi cách khác là “Chu trình Ni-tơ” là hệ thống lọc cơ bản và sống còn đối với bể nước mặn – nó bao gồm các vi khuẩn có lợi để chuyển đổi các chất thải có hại thành chất lành tính khi ở nồng độ thấp. Là bước đầu cơ bản tạo môi trường sống cho các sinh vật trong bể của bạn. Vòng tuần hoàn có thể được diễn tả đơn giản như sau:
Chất thải => NH4 => NO2 => NO3 ( NO3 được coi là nguyên tố cuối cùng trong vòng tuần hoàn)
- Chất thải : Đó là khi nguồn NH4 được đưa vào bể cùng với nguồn vi sinh. Nguồn NH3 có thể đơn giản là thức ăn cho cá, để cho phân hủy ra trong bể. Nguồn vi sinh có thể là nước, đá, vụn san hô, cát, đồ trang trí nói chung là tất cả lấy từ 1 bể đang ổn định. Hay cách khác đó là đá sống, cung cấp cả NH3 và vi sinh.
- NH4 (Ammoniac): NH4 sinh ra từ chất thải của các loài trong bể nước mặn, hoặc từ thức ăn thừa và sinh vật chết bị thối rữa. Là nguyên tố bắt đầu cho vòng tuần hoàn và là chất cực độc đối với bể nước mặn, có thể ảnh hưởng hoặc giết chết mọi loài rất nhanh cho dù chỉ với 1 hàm lượng nhỏ. Vì vậy NH4 luôn phải được giữ ở mức <0.1ppm , bể có NH3 >0.1ppm là bể chưa hoàn thành vòng tuần hoàn, hoặc bị thả nhiều cá 1 lúc khiến vi sinh ko kịp chuyển hóa NH3, hoặc trong bể có sinh vật bị chết và đang phân hủy.
- NO2 (Nitrite): NO2 có thể được hiểu đơn giản là nguyên tố thứ 2 trong vòng tuần, được vi sinh chuyển hóa từ NH4 sang NO2. Bên cạnh đó, NO2 được tạo ra cũng từ NO3 dưới nhiều hình thức như dưới sự tác động của tia UV, được chuyển hóa bên trong san hô và rong (đôi khi lượng NO2 ko bị thải ngược ra ngoài bể). NO2 vẫn là vấn đề đang được tranh cãi khi có 2 trường phái. Trường phái thứ nhất thì tin rằng NO2 độc và nguy hiểm ko kém gì NH3 => bể được cho là an toàn khi NO2= 0. Trường phái thứ 2 thì cho rằng NO2 vô hại đối với môi trường nước mặn, nhưng đối với bể mới, NO2 nên về dưới 0.05 để hoàn tất vòng tuần hoàn và để ổn định NO2. Các nghiên cứu đã chứng minh rằng clownfish (cá hề, khoang cổ) có thể chịu được nồng độ NO2 lên đến 344ppm, eel (lươn biển) có thể chịu được NO2 lên đến 3,200ppm, và nhím biển xanh có thể chịu được nồng độ NO2 < 33ppm. Đối với trường phái này, việc đo NO2 là ko cần thiết và may ra chỉ được dùng để giám sát quy trình của vòng tuần hoàn.
- NO3 (Nitrate): Nguyên tố kết thúc vòng tuần hoàn cơ bản. Được cho là vô hại ở nồng độ thấp. Bể nuôi cá có thể để NO3 lên đến hàng trăm ppm nhưng tốt nhất nên giữ ở 30-40ppm, còn với san hô thì được khuyến cáo nên giữ ở mức 0ppm < NO3 < 1ppm – nguyên do là vì NO3 sẽ khiến bể bị rêu, và 1 số loài dị ứng với NO3 > 5ppm, nhưng 1 số loài thì lại cần NO3 như 1 chất dinh dưỡng. Cách giảm NO3 hiệu quả nhất là thay nước, ngoài ra NO3 có thể được khử bằng đá sống, lọc cát, lọc rong và các máy reactor, hay vodka – sugar dosing, vvv…
“Chu trình Ni-tơ” diễn ra trong bao lâu?
- Cách duy nhất để biết vòng tuần hoàn diễn ra bao lâu là dùng bộ thử nước NH3, NO2, NO3. NH3 tăng rồi giảm dần về 0, khi NH3 giảm đồng thời với việc NO2 tăng và rồi NO2 giảm dần về 0, khi NO2 giảm thì cũng là lúc NO3 tăng. Một khi NH3 về 0 , NO2 về 0 (trên thực tế NO2 đôi khi chỉ xuống được 0.05 – 0.02 ) thì có thể coi là hoàn tất. Về thời gian thì có thể nhanh là 2 tuần , chậm nhất là 8 tuần và tùy thuộc vào nhiều yếu tố như thời gian bắt đầu kích vòng tuần hoàn và cách đẩy nhanh vòng tuần hoàn. Quá trình chuyển hóa NH3 thành NO2 diễn ra nhanh hơn NO2 sang NO3.
- Có rất nhiều cách để đẩy nhanh vòng tuần hoàn như : tăng oxy, xin nước, đồ lọc từ bể ổn định, cho đá sống đã được chạy nước từ cửa hàng bán cá cung cấp luồng nước mạnh cho đá…
- Một vòng tuần hoàn có thể diễn ra trong 4-6 tuần tùy vào tình trạng của bể. 1 bể cần chạy ko có cá từ 4-6 tuần để đảm bảo vi khuẩn có hại như vi khuẩn gây bệnh nấm trắng (ich) giảm. Cá mới về nên được cách ly theo dõi – hay còn gọi là dưỡng ít nhất 1 tháng trước khi cho vào bể chính để đảm bảo cá khỏe mạnh và ko có dấu hiệu bệnh tật
Đá sống
Hãy bắt đầu ” Chu trình Ni-tơ” bằng đá sống. Bạn cần những tảng đá sống lớn . Đá sống trở thành nền tảng của chu trình sinh học nitơrat hóa hay bộ lọc sinh học chính của một bể cá nước mặn trong khi vừa làm tăng vẻ đẹp cho bể và cung cấp nơi trú ẩn cho các cư dân trong bể. Để hiểu hơn về mục đích của dùng đá sống trong bể cá
- Việc sử dụng đá sống ngay lập tức làm gia tăng một lượng lớn các loại tảo, vi khuẩn và các loài động vật không xương sống nhỏ và việc này làm tăng chất lượng tổng thể cho bể cá.
- Đá sống cung cấp nhiều diện tích bề mặt cho vi khuẩn, nếu không muốn nói là nhiều hơn một bộ lọc nhỏ giọt. Bởi đá sống trong bể chứa nhiều loại vi khuẩn, tảo và san hô khác nhau, các chất thải như ammoniac, nitrate, phosphate sẽ dễ dàng bị tiêu hủy.
- Ammoniac, nitơrat và phosphate dễ dàng bị tảo và các loài san hô có thể quang hợp trên hòn đá tiêu hóa.
- Vi khuẩn trong hòn đá cũng có thể nhanh chóng chuyển đổi ammoniac thành nitrate. Loại nitrate này có thể bị các loại san hô và tảo hút lấy hoặc bị vi khuẩn khử thành các dạng trung gian gần với nitrate sản sinh vi khuẩn
Đá sống có 2 loại có thể gọi nôm na là đá nửa chết và đá sồng hoàn toàn. Đá nửa chết là đá sống khai thác dưới đáy biển, rồi các vi khuẩn bên ngoài chết đi do thời gian rời nước và vận chuyển. Đá này sau khi được đưa tới các cửa hàng, 1 là bán luôn với giá rẻ hơn rồi người chơi tự về nhà vệ sinh và chạy lại đá cùng với vòng tuần hoàn. Đá sống hoàn toàn là đá được cửa hàng vệ sinh, chạy nước sẵn rồi bán cho người chơi với giá cao hơn.